Tại Điều 8 về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn; thời hạn được coi là chưa bị xử phạt; thời hạn truy thu thuế quy định như sau:
"1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn
- Thời điểm tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn được quy định như sau:
Đối với hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện quy định tại Điểm c Khoản này thì thời hiệu được tính từ ngày người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm.
Đối với hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc quy định tại Điểm d Khoản này thì thời hiệu được tính từ ngày chấm dứt hành vi vi phạm.
- Hành vi vi phạm hành chính về hóa đơn đang được thực hiện là các hành vi quy định tại Khoản 4, Điều 21; Điểm b, Khoản 2 và Khoản 3, Điều 23; Khoản 2, Khoản 5, Điều 24; Điểm b, Khoản 3, Điều 25; Điểm b, Khoản 2 và Điểm b, c, d, Khoản 3, Điều 27; Điểm b, Khoản 5, Điều 29; Điểm b, Khoản 3, Điều 30 Nghị định này.
- Hành vi vi phạm hành chính về hóa đơn không thuộc trường hợp quy định tại Điểm c Khoản này là hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc. Thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm là ngày thực hiện hành vi vi phạm đó.
Đối với hành vi mất, cháy, hỏng hóa đơn nếu không xác định được ngày mất, cháy, hỏng hóa đơn thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm là ngày phát hiện hóa đơn bị mất, cháy, hỏng.
Đối với hành vi vi phạm về thời hạn thông báo, báo cáo về hóa đơn quy định tại Khoản 1, 3, Điều 21; Điểm a, b, Khoản 1 và Điểm c, d, Khoản 2, Điều 23; Khoản 1, 2 và Điểm a, Khoản 3, Điều 25; Khoản 1, Điểm a, Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 và Điểm a, Khoản 5, Điều 29 Nghị định này thì thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm là ngày người nộp thuế nộp thông báo, báo cáo về hóa đơn".
Căn cứ Nghị định số 102/2021/NĐ-CP ngày 16/11/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; Hải quan; kinh doanh bảo hiểm; kinh doanh xổ số; quản lý tài sản công; thực hành tiết kiệm; chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước; kế toán; kiểm toán độc lập.
Tại Khoản 1, Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 125/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn quy định như sau:
Sửa đổi Điểm a, Khoản 1, Điều 8 như sau:
"a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn là 02 năm"".
Tại Điều 7 quy định chuyển tiếp quy định như sau:
Đối với trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực thi hành mà sau thời điểm có hiệu lực của Nghị định này, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính còn khiếu nại thì được giải quyết theo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm hành chính.
Đối với các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn; hải quan; kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số; quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia; kho bạc nhà nước; kế toán, kiểm toán độc lập xảy ra trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết để xử phạt vi phạm hành chính thì áp dụng các quy định về xử phạt quy định tại Nghị định này nếu Nghị định này không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn cho cá nhân, tổ chức vi phạm".
Tại Điều 9 hiệu lực thi hành quy định như sau:
"Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2022".
Căn cứ các quy định trên, thời điểm tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn như sau:
Đối với hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 8 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP thì thời hiệu được tính từ ngày người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm.
Đối với hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc quy định tại Điểm d, Khoản 1, Điều 8 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP thì thời hiệu được tính từ ngày chấm dứt hành vi vi phạm.Thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm là ngày thực hiện hành vi vi phạm đó.
Trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn đã được ban hành trước thời điểm Nghị định số 102/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành mà sau thời điểm có hiệu lực của Nghị định số 102/2021/NĐ-CP, cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính còn khiếu nại thì được giải quyết theo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm hành chính.
Trường hợp hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn xảy ra trước ngày Nghị định số 102/2021/NĐ-CP có hiệu lực thi hành mà sau đó mới bị phát hiện hoặc đang xem xét, giải quyết để xử phạt vi phạm hành chính thì áp dụng các quy định về xử phạt quy định tại Nghị định số 102/2021/NĐ-CP và có thời hiệu xử phạt là 2 năm nếu Nghị định số 102/2021/NĐ-CP không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn cho cá nhân, tổ chức vi phạm theo quy định tại Khoản 1, Điều 1, Điều 7 Nghị định số 102/2021/NĐ-CP.
Theo ví dụ của ông đưa ra như sau: Hành vi xuất hóa đơn khống là hành vi thuộc Điểm b, Khoản 2, Điều 4 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP quy định về hành vi sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp; sử dụng không hợp pháp hóa đơn, chứng từ có ngày xuất hóa đơn là ngày 1/1/2021, nếu hành vi vi phạm này thuộc Điểm d, Khoản 1, Điều 8 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn, chưa có quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban hành trước thời điểm Nghị định số 102/2021/NĐ-CP có hiệu lực thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn đối hành vi xuất hóa đơn khống được tính từ ngày 1/1/2021 và có thời hiệu xử phạt là 2 năm nếu Nghị định số 102/2021/NĐ-CP không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn cho cá nhân, tổ chức vi phạm theo quy định tại Khoản 1, Điều 1, Điều 7 Nghị định số 102/2021/NĐ-CP.
Trong quá trình thực hiện nếu còn vướng mắc, đề nghị ông cung cấp hồ sơ liên quan đến vướng mắc và liên hệ với cơ quan thuế quản lý trực tiếp để được hướng dẫn cụ thể.